Cà phê là một trong những ngành hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta. Ðồng thời là một ngành có vị trí quan trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội của đông đảo đồng bào dân tộc Tây Nguyên, gắn với an ninh - quốc phòng của đất nước. Những năm qua, ngành cà-phê đã có những bước phát triển nhanh và mạnh, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu cà-phê hàng đầu thế giới. Nhưng, sự phát triển đó chưa mang tính bền vững.
- Thứ nhất, về chế biến sản phẩm cà-phê. Hiện nay, cả nước chế biến được khoảng gần 10% sản lượng cà-phê thu hoạch hằng năm, bao gồm cả chế biến rang xay và chế biến sâu (cà-phê hòa tan). Các nhà đầu tư ở lĩnh vực công nghiệp chế biến sâu có thương hiệu trong nước như Vinacafe, Trung Nguyên, nước ngoài có Nescafe. Các sản phẩm rang xay có thương hiệu như: Thu Hà (Gia Lai), Ðắc Hà (Kon Tum), Vinacafe, Trung Nguyên... Công nghiệp chế biến mới phát triển ở mức độ thấp, vì vốn đầu tư lớn, trong khi điều kiện tài chính của các nhà đầu tư Việt Nam còn hạn chế, việc xây dựng thị trường sản phẩm trong nước và ở nước ngoài mới ở bước đầu. Nhưng chỉ có qua chế biến thì mới gia tăng giá trị của sản phẩm cà-phê, trong thực tế, giá trị do cà-phê hòa tan đem lại gấp hàng trăm lần cà-phê nhân. Còn việc sơ chế cà-phê nhân để xuất khẩu còn rất nhiều vấn đề đặt ra. Tuy Nhà nước đã ban hành tiêu chuẩn cà-phê nhân 4193/TCVN, quy định chất lượng cà-phê nhân xuất khẩu, nhưng trên thực tế các doanh nghiệp cà-phê xuất khẩu vẫn chưa thực hiện nghiêm tiêu chuẩn nêu trên. Vì vậy, Việt Nam là nước sản xuất cà-phê lớn thứ hai thế giới nhưng chưa có thương hiệu đúng tầm. Chúng ta bán cà-phê sơ chế cho công ty nước ngoài xong thì họ tuyển chọn, chế biến lại và đóng tên sản phẩm của công ty đó để bán cho các nhà rang xay. Tại Việt Nam có rất ít các công ty bán thẳng sản phẩm đủ tiêu chuẩn trực tiếp cho các nhà rang xay nước ngoài. Do chủ yếu là xuất khẩu thô cà-phê, Việt Nam không chỉ thiệt hại về giá trị, còn chịu nhiều thiệt thòi do chưa xây dựng được thương hiệu đối với người tiêu dùng thế giới. Cà-phê Việt Nam hầu như không có chỗ đứng trên thương trường quốc tế, trái với Bra-xin hay những nước xuất khẩu ít hơn như Cô-lôm-bi-a, Ê-ti-ô-pi-a hay thậm chí Kê-ni-a.
- Thứ hai, hiện trạng thu mua xuất khẩu sản phẩm cà-phê càng khó khăn hơn. Các năm từ 2005 đến 2009, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thu mua và xuất khẩu được khoảng 70 đến 80% sản lượng cà-phê của niên vụ. Do tình hình tài chính khó khăn và lãi suất cao, từ năm 2010 đến nay, sản lượng thu mua xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước giảm dần. Trong khi đó các doanh nghiệp nước ngoài FDI đã thu mua và xuất khẩu hơn 50% sản lượng thu hoạch hằng năm. Thời gian qua, họ đã trực tiếp thu mua của người nông dân, trái với các quy định của Nhà nước. Với lợi thế đủ vốn, vay lãi suất thấp và nắm bắt thông tin thị trường kịp thời, các doanh nghiệp nước ngoài đã đẩy các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà-phê trong nước vào tình trạng khó khăn, do doanh nghiệp trong nước nắm không sát giá cả và biến động giá của thị trường thế giới. Hơn nữa các doanh nghiệp Việt Nam phải vay vốn lãi suất cao, chu kỳ vay ngắn nên việc thu mua kinh doanh xuất khẩu cà-phê rủi ro cao, nhiều doanh nghiệp lỗ lớn, lâm vào tình trạng phá sản. Có thể nói, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà-phê Việt Nam đã thua ngay trên sân nhà, và không loại trừ khả năng khi doanh nghiệp nước ngoài thâu tóm được thị trường thì sẽ dẫn đến tình trạng lũng đoạn giá cả, bất lợi cho cả sản xuất và kinh doanh xuất khẩu.
- Trung Nguyên, công ty cà phê lớn nhất Việt Nam, muốn thay đổi tiếng tăm của Việt Nam là một nước xuất khẩu cà phê giá rẻ. Chủ tịch công ty Đặng Lê Nguyên Vũ uống 10 cốc cà phê một ngày và muốn những người khác cũng làm như vậy để nâng cao mức tiêu thụ cà phê thấp trong nước và văn hóa cà phê. Ông Vũ nói:
“Chúng tôi có cà phê robusta đủ số lượng và chất lượng, đứng số một trên thế giới. Nhưng chúng tôi thiếu một điều là công nghiệp đóng gói, công nghiệp trình bày, và công nghiệp quảng cáo, làm cho thế giới hiểu được chính xác những gì thế giới cần đến. Việt Nam phải là một quốc gia lớn, không chỉ về số lượng.”
1. Hiệp định TPP
Đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP – Trans-Pacific Parrtnership) – một Hiệp định thương mại tự do giữa 12 nước hai bờ Thái Bình Dương, bao gồm Việt Nam, Brunei, Singapore, Malaysia, Chile, Úc, New Zealand, Peru, Mexico, Canada, Nhật Bản và Mỹ - đến nay đã trải qua 19 vòng đàm phán.
Những thách thức cần đối mặt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và nông thôn
§ Đối với thị trường trong nước
- Việt Nam phải mở cửa thị trường, tức phải loại bỏ 100% dòng thuế(thuế quan nhập khẩu) đối với các sản phẩm nông nghiệp, trong khi rào cản kỹ thuật chưa có hoặc không cao, nên thị trường nội địa cũng gặp bất lợi.
- Đối với Việt Nam, với tính chất là một nước có khu vực sản xuất nông nghiệp khá lớn, Việt Nam có nhu cầu cao trong việc yêu cầu các đối tác mở cửa thị trường nông nghiệp cho nông sản Việt Nam. Vấn đề khó khăn là ở chỗ các nước TPP đều có xu hướng đàm phán hạn chế, giữ bảo hộ đối với nông sản nội địa (không mở cửa).
- Trong khi đó, vì nền nông nghiệp của Việt Nam chưa được bền vững, thu nhập không cao và nhóm nông dân đồng thời là nhóm dễ bị tổn thương trong hội nhập nên Việt Nam cần bảo hộ một số lĩnh vực nhất định trước sức ép cạnh tranh từ bên ngoài (giữ mức thuế cao trong một số dòng thuế, đặc biệt là với những sản phẩm mà các nước TPP có thế mạnh...).
§ Đối với thị trường xuất khẩu
- Rào cản kỹ thuật của các nước sẽ khắt khe hơn, trong khi năng lực cạnh của Việt Nam không cao dẫn đến khó tận dụng lợi ích từ việc giảm thuế quan.
- Điều này gây bất lợi cho nông sản Việt Nam dù thuế suất có là 0%, đó là một số nước thuộc TPP đang ra sức bảo hộ, hạn chế nhập khẩu nông sản để bảo vệ nền nông nghiệp trong nước. Nông sản là vấn đề rất khó đàm phán vì từ xưa đến nay trong khuôn khổ đàm phán các hiệp định tự do thương mại hay gia nhập WTO... nông sản luôn là lĩnh vực được các nước bảo hộ mạnh mẽ.
- Vấn đề TBT (Technical Barriers to Trade – Hàng rào kỹ thuật thương mại) và SPS (Sanitary and Phytosanitary Measures– Biện pháp vệ sinh dịch tễ) rất quan trọng đối với khả năng tiếp cận thịtrường các nước của nông sản Việt Nam bởi dù thuế quan (nhập khẩu vào các nước) có được cắt bỏ hết nhưng việc kiểm dịch, kiểm tra dư lượng kháng sinh, các đòi hỏi về nhãn mác bao gói... của các nước vẫn ngăn chặn khả năng xuất khẩu của nông sản Việt Nam, thậm chí là còn rủi ro hơn nhiều so với thuế quan.
- Đàm phán TPP trong vấn đề này hiện hầu như không giải quyết được vướng mắc này của Việt Nam vì các nội dung đàm phán không đề cập tới vấn đề hạn chế quyền ban hành các điều kiện SPS, TBT mới của các nước TPP (và vì vậy các nước này vẫn được đơn phương đưa ra các điều kiện SPS, TBT mới hoặc điều chỉnh, từ đó ngăn chặn việc nhập khẩu của nông sản Việt Nam vào các nước này). Thực tế, đàm phán chỉ xoay quanh vấn đề hợp tác để xử lý vướng mắc, một vấn đề chỉ liên quan tới rút ngắn thời gian xửlý khiếu nại, còn các điều kiện kiểm dịch thì vẫn giữ nguyên.
- Như vậy, để những lợi ích thuế quan đối với nông sản của Việt Nam được hiện thực hóa, TPP cần có những cam kết ràng buộc và hạn chế quyền tự do, độc đoán của các nước TPP trong việc ban hành các quy định biện pháp kỹ thuật hay vệ sinh dịch tễ.
Cũng liên quan tới nông sản, nhưng ở khía cạnh sản xuất, một số cam kết trong TPP ở những lĩnh vực tưởng như không liên quan nhưng nếu không được đàm phán quyết liệt cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất và triển vọng của hàng nông sản.
Để có thể đưa ra những đề xuất thích hợp trong việc xây dựng phương án bảo vệ ngành nông nghiệp Việt Nam trước các đối thủ cạnh tranh từ các nước TPP, cần có đánh giá đầy đủ về tương quan năng lực cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam với các đối tác TPP, đặt trong bối cảnh các cam kết mở cửa thương mại hiện có của Việt Nam với các nước này.
Cụ thể, trong số các nước đàm phán, nước ta đã tham gia các FTA khu vực (tức là đã có cam kết cắt giảm thuế quan xuống bằng 0% theo lộ trình đối với các sản phẩm hàng hóa nói chung và nông nghiệp nói riêng) với các nước hiện là thành viên đàm phán TPP như sau:
Ø Đối với Brunei, Malaysia và Singapore:
§ Việt Nam đã tham gia thỏa thuận Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA – ASEAN-Free Trade Area) trong đó có cam kết về mở cửa thị trường nông sản cho ba nước này.
§ Theo cam kết trong khuôn khổ AFTA, thuế quan của Việt Nam đối với tất cả các mặt hàng nông sản nhập khẩu từ 03 nước này đều đã ở mức từ 0-5%, kể cả các mặt hàng nông sản nhạy cảm như đường ăn (mặc dù đường vẫn được duy trì hạn ngạch thuế quan – TRQ - Tariff Rate Quotatheo cam kết WTO). Như vậy, về mặt thuế quan, việc mở cửa thị trường nông sản hoàn toàn cho các nước này trong khuôn khổ TPP sẽ không làm thay đổi tình hình cạnh tranh của Việt Nam với các đối tác này so với AFTA đã có.
§ Về năng lực cạnh tranh thực tế, Brunei và Singapore tuy là hai nước có thu nhập cao nhưng nước nhỏ và không có sản xuất nông nghiệp đáng kể. Vì vậy, khả năng nông sản Việt Nam bị cạnh tranh mạnh từ các nước này khi Việt Nam mở cửa thị trương theo TPP hầu như không có. Đối với Malaysia, do nước này hiện đang nhập siêu nông sản từ VN (đặc biệt là gạo, rau quả, kể cả thịt) nên nguy cơ rủi ro khi Việt Nam mở cửa thị trường nông sản cho Malaysia theo TPP cũng không đặt ra.
§ Tóm lại, vấn đề mở cửa thị trường nông sản trong TPP đối với Brunei, Singapore và Malaysia không đặt ra vấn đề gì nghiêm trọng đối với nông nghiệp Việt Nam.
Ø Đối với Úc và New Zealand:
§ Việt Nam đã có thỏa thuận mở cửa thị trường nông sản với trong khuôn khổ FTA giữa ASEAN và hai nước này (AANZFTA - ASEAN-Australia-New Zealand Free Trade Agreement - Hiệp định khu vực thương mại tự do giữa các nước ASEAN, Australia và New Zealand).
§ Theo FTA này, Việt Nam đã cam kết mở cửa thị trường theo lộ trình nhất định (tùy thuộc từng dòng thuế) cho nông sản đến từ Úc và New Zealand.
§ Lộ trình mở cửa theo FTA này (mặc dù vẫn còn một số năm nữa mới tới hạn loại bỏ thuế hoàn toàn, tùy loại nông sản) thực sự là một thách thức đối với Việt Nam bởi đây là hai nước có năng lực cạnh tranh thuộc vào diện cao nhất thế giới ở các sản phẩm ngành chăn nuôi bò (thịt bò, sữa), quả ôn đới (táo, cam…).
§ Trong khi đó, khả năng tiếp cận thị trường hai nước này của nông sản Việt Nam hầu như không đáng kể do dung lượng thị trường nhỏ (dân số của cả nước chỉ khoảng 25 triệu người), các yêu cầu kỹ thuật (rào cản kỹ thuật) cao và khả năng cạnh tranh nội địa về nông sản của nước họ thuộc loại cao nhất trên thế giới.
Ø Đối với Chi Lê và Pêru:
§ Mặc dù Việt Nam mới có FTA với Chi Lê năm 2011 và chưa có FTA nào với Pêru nhưng đây là hai thị trường tương đối xa (về khoảng cách địa lý), quy mô nhỏ (về dân số) và khả năng cạnh tranh cũng gần như tương đương Việt Nam.
§ Vì vậy, việc mở cửa thị trường nông sản Việt Nam cho hai nước này trong khuôn khổ TPP (dù bằng hoặc sâu hơn mức cam kết trong FTA mới ký với Chi Lê) sẽ không tạo ra thách thức lớn (tại thị trường Việt Nam) và cũng không nhiều hứa hẹn (tại hai thị trường Chi Lê và Pêru).
Ø Đối với Mỹ:
§ Việt Nam chưa có thỏa thuận thương mại tự do nào với Mỹ (cả song phương và đa phương), và do đó mức độ cam kết mở cửa thị trường nông sản của Việt Nam đối với đối tác này hiện tại đang dừng lại ở cam kết WTO.
§ Về triển vọng xuất khẩu, TPP có thể mang lại cho nông sản nhiệt đới, nhất là rau quả chế biến, của nước ta cơ hội tiếp cận thị trường quan trọng này thông qua việc loại bỏ thuế quan. Tuy nhiên, Mỹ áp dụng hàng rào kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ cao (TBT, SPS) nên khả năng thực tế để nông sản nhiệt đới xâm nhập được vào thị trường này có thể bị hạn chế nhiều. Mỹ hiện là thị trường lớn thứ 2 sau EU về nhập khẩu cà phê của Việt Nam, mặc dù vậy thuế suất đối với cà phê nhân mà Mỹ áp dụng cho Việt Nam hiện đã là 0%. Vì vậy, TPP sẽ không mang lại thêm lợi ích nào cho sản phẩm này của Việt Nam.
§ Ở thị trường nội địa, Việt Nam hiện nhập khẩu khá nhiều ngô, bông từ Mỹ. Mặc dù vậy, thuế quan mà Việt Nam đang áp dụng đối với mặt hàng này đều thấp (0-5%), do đó nếu TPP loại bỏ thuế ở mảng này, nông sản tương ứng của Việt Nam sẽ không gặp khó khăn hơn hiện nay
§ Tuy nhiên,Mỹ có thế mạnh trong các sản phẩm như sữa, thịt bò, thịt gia cầm, thịt lợn và với mức thuế suất hiện tại, Việt Nam cũng đang nhập khá nhiều từ Mỹ, nếu mở cửa các mặt hàng này, nguy cơ sản phẩm tương tự của Việt Nam gặp khó khăn khi cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu từ Mỹ là rất lớn.
Như vậy, có thể nói, trong TPP, ba nước Mỹ, Úc, New Zealand là đáng lo ngại nhất đối với Việt Nam khi đàm phán và thực hiện cam kết về mở cửa hàng nông sản.Thông thường, trong thương mại nông sản, bảo hộ được thực hiện theo nhiều cơ chế (hợp pháp).
Mỗi quốc gia là một nền kinh tế có lịch sử hình thành và phát triển khác nhau nhưng đều có một mục đích chung là tìm lợi thế khai thác nguồn lợi của mình thông qua các hiệp định thương mại. Trong thế giới phẳng và biên giới mềm hiện nay, các quốc gia có nền kinh tế thấp như Việt Nam đều tận dụng lợi thế hội nhập để nâng cao kỹ năng quản lý và khả năng cạnh tranh của mình. Tuy bị các quốc gia lớn gây sức ép nhiều mặt nhưng không có điều kiện nào tốt hơn là hội nhập, chứkhông thể đứng riêng lẻ bên lề một mình. Và một khi bản thân lớn mạnh, lúc đó tiếng nói của mình sẽ mạnh hơn. Như vậy nên Việt Nam mong đợi gia nhập Hiệp định TPP để phát huy lợi thế trong các ngành. Tuy nhiên, sẽ có những ngành có lợi thế mạnh và có những ngành có lợi thế yếu, chúng ta bắt buột phải chấp nhận “lép vế” một mặt nào đó để khai thác cạnh tranh những ngành có lợi thế.
Cuối cùng, mỗi một nền kinh tế đều mưu cầu sự hội nhập với tính độc lập của mình, không lệ thuộc vào bất kỳ nền kinh tế nào,chỉ quan trọng là làm thế nào để lệ thuộc tối đa lợi ích kinh tế của đất nước mình. Như vậy, chúng ta phải hiểu đúng tiềm năng, thực lực của chính chúng ta và có bản lĩnh trong đàm phán. Và những quốc gia có nền kinh tế mạnh trong các hiệp định quốc tế cũng cần tỏ rõ vị trí của mình trong vai trò anh cả của khối hiệp ước chung
2. Hiệp định FTA
FTA (Hiệp định thương mại tự do) là một Hiệp ước thương mại giữa hai hoặc nhiều quốc gia. Theo đó, các nước sẽ tiến hành theo lộ trình việc cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan cũng như phi thuế quan nhằm tiến tới việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do. Theo thống kê của Tổ chức thương mại thế giới có hơn 200 Hiệp định thương mại tự do có hiệu lực.Các Hiệp định thương mại tự do có thể được thực hiện giữa hai nước riêng lẻ hoặc có thể đạt được giữa một khối thương mại và một quốc gia.
v Tác động FTA đối với ngành cà phê
lộ trình cắt giảm và mức thuế lại là vấn đề được các DN XK quan tâm. Bởi theo ông Nguyễn Viết Vinh, Tổng thư ký Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam (Vicofa), mặc dù thuế XK vào EU có mức trung bình là 2,6%, song ở từng mặt hàng thì lại có mức thuế khá cao. Theo đó, chỉ sản phẩm cà phê nhân có chất khử cà-phê-in được hưởng mức thuế 0%, còn cà phê nhân mà chưa có cà-phê-in có mức thuế 8,3%; cà phê rang xay có cà-phê-in là 7,5%, không có cà phê in là 9% và cà phê hoà tan là 9%. Đây là mức thuế khá cao, làm hạn chế khả năng cạnh tranh của các DN XK cà phê. Theo cam kết của WTO, thuế cho các sản phẩm cà phê nhân đã giảm về 0%, trong khi Việt Nam lại rất có thế mạnh XK sản phẩm này, nếu EU vẫn giữ mức thuế trên 8% thì rất khó cải thiện được kim ngạch XK. Chưa kể, định hướng phát triển của ngành cà phê sắp tới sẽ nâng tỷ trọng cà phê chế biến từ 10% lên 20%, nên với mức thuế hiện nay là 9% cần phải có lịch trình tham vấn và nội dung đàm phán phù hợp, để đảm bảo mang lại lợi ích cho DN nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm thông qua giảm thuế..